
Chào mừng bạn đến với cộng đồng truyện lớn nhất VN - Metruyen.tv
Chào mừng bạn đến với cộng đồng truyện lớn nhất VN - Metruyen.tv
Sáng sớm hôm sau, Thích Tầm lại là người đầu tiên đến thư viện. Nàng lấy mấy bản thảo mà hôm trước Lý Liêm đưa, tỉ mỉ giở từng trang.
Chu Úy đến nơi, liền thấy nàng đang chăm chú nghiên cứu mấy thiên văn chương khó hiểu kia, liền hỏi:
“Xem mấy thứ này làm gì? Không phải chúng ta đang cần đọc kịch văn sao?”
Thích Tầm lắc đầu, vẫn tiếp tục đọc: hôm qua nàng chỉ liếc qua, một trang mười hàng, chưa kỹ lưỡng. Nhưng hôm nay khác, nàng muốn tìm ra hai câu thơ.
Liên tiếp đọc qua năm thiên, rốt cuộc cũng tìm được. Đó là một thiên biền văn, độ vài trăm chữ, lời văn hoa mỹ, âm luật đối xứng, tiết tấu nhịp nhàng, đọc lên rất khoái tai. Trong đó, có hai cặp câu mười bốn chữ, lại đúng bằng với đoạn nàng đã thấy trong kịch bản 《Vũ Lâm Linh》 đêm qua.
Nàng đặt văn bản xuống, lại tìm tới kịch bản đem về. Khi lật đến trang kia, quả nhiên là cùng một đôi liên cú, không sai một chữ. Nàng vội nhìn xuống phần lạc khoản của bài thi, rồi chợt nhíu mày chặt chẽ.
—Đó chính là văn bài của Tằng Văn Hòa.
—Mà kịch bản, lại là 《Vũ Lâm Linh》.
Theo lời Lâm Vi, 《Vũ Lâm Linh》 vốn là lão kịch, đã diễn từ lâu. Thế nhưng thiên biền văn này là đề thi vào cuối năm ngoái. Vậy tại sao Tằng Văn Hòa lại đem câu thơ trong kịch bản ra dùng vào bài thi? Chẳng lẽ chỉ là trùng hợp?
Chu Úy thấy nàng sắc mặt ngưng trọng, trong mắt sáng lóe, biết ngay nàng đã tìm ra manh mối. Hắn đợi mãi mà không thấy nàng nói, bèn nhịn không được hỏi:
“Sao vậy? Có vấn đề gì sao?”
Thích Tầm thở ra một hơi:
“Đi, chúng ta đi tìm Giản Hồng.”
Hôm qua Hà Hữu Vi mấy người đều nói, Tằng Văn Hòa nhà nghèo, không thể bỏ bạc đến hát quán. Nhưng ngoài họ, trong thư viện cũng có Giản Hồng là bằng hữu thân cận với Tằng Văn Hòa. Thích Tầm ôm theo văn bài cùng kịch bản, thẳng bước tới dãy phòng ở phía bắc.
Chu Úy theo sau, hỏi:
“Sao lại tìm Giản Hồng?”
Vừa đi, Thích Tầm vừa đáp:
“Trong bài thi của Tằng Văn Hòa có thơ trích từ 《Vũ Lâm Linh》, hẳn là hắn từng xem qua vở này. Nhưng hôm qua bọn Hà Hữu Vi lại nói chưa từng thấy hắn đi nghe hát. Muốn rõ ràng, tất phải hỏi Giản Hồng.”
Chu Úy giật mình:
“Tống thiếu khanh hôm nay cũng định đi tra việc này, chẳng lẽ Tằng Văn Hòa thật sự từng đi nghe hát?”
Bước chân Thích Tầm càng nhanh. Đến trước phòng Giản Hồng, thì gặp hắn đang rửa bút. Trước mặt là một chậu mực đen ngòm, hai cây bút lông đã sờn đang được hắn cẩn thận rửa sạch.
Thấy Thích Tầm đến, sắc mặt hắn thoáng căng:
“Các ngươi… sao lại tới đây?”
Thích Tầm nhìn việc trong tay hắn chưa xong, không vội hỏi:
“Ngươi cứ rửa đi.”
Giản Hồng mím môi, vừa rửa nhanh tay, vừa giải thích:
“Mực ta dùng không tốt, dễ khô, không kịp rửa liền vón cục, khó chùi lắm. Xin hai vị chờ một lát.”
Thích Tầm gật đầu. Đợi hắn làm xong, nàng theo hắn vào phòng, đưa văn bài ra. Giản Hồng thoáng nhìn liền nói:
“Đây là khoa khảo cuối năm ngoái… đúng rồi, chính là bài của Tằng đại ca.”
Thích Tầm gật, hỏi ngay:
“Ngươi có biết Tằng Văn Hòa thích đi xem kịch không?”
Giản Hồng kinh ngạc:
“Sao có thể? Nhà Tằng đại ca chẳng khá hơn ta bao nhiêu, làm gì bỏ tiền vào chỗ đó. Bình thường huynh ấy sống tiết kiệm, chăm chỉ, cũng không hứng thú với mấy thứ tiêu khiển ấy. Hơn nữa, năm ngoái thi không đỗ tiến sĩ, tâm trạng u sầu, lại càng không rảnh rỗi đi nghe hát.”
Giọng hắn vô cùng chắc chắn. Thích Tầm nhìn xuống văn bài, chỉ thấy càng thêm khó hiểu. Nếu chưa từng đi nghe kịch, Tằng Văn Hòa làm sao chép ra được câu thơ giống hệt như trong vở tuồng? Văn chương có thể cùng một ý, nhưng chữ câu vận luật giống hệt từng chữ, lại chẳng khác gì.
Trừ phi — hắn thật sự đã nghe, và ấn tượng khắc sâu, nên lúc làm văn thi liền thuận tay viết ra.
Hơn nữa, Lưu Hi cũng từng nghe qua 《Vũ Lâm Linh》.
Nghĩ tới Lưu Hi còn từng xem 《Kim Chi Ký》 của Thường Thanh, Thích Tầm lại hỏi:
“Ngươi có biết đến kịch bản 《Kim Chi Ký》 của Thường Thanh không?”
Giản Hồng đáp ngay:
“Cái đó ta biết. Nó là quyển sau 《Kim Tỏa Ký》. Khi 《Kim Tỏa Ký》 diễn ra, khắp nơi hoan nghênh, thế nên Thường đại ca mới viết thêm 《Kim Chi Ký》. Nhưng lúc viết quyển này, trong thư viện có nhiều kẻ châm chọc, huynh ấy thường lén lút mà viết, ta cũng chẳng rõ nội dung.”
Thích Tầm nghe, trong lòng hơi thất vọng. Giản Hồng lại nhìn văn bài, thở dài:
“Thiên biền văn này Tằng đại ca làm xong từng đưa chúng ta đọc qua. Khi ấy, Tề sơn trưởng cũng khen ngợi hết lời, bảo rằng nếu bốn năm trước hắn đi thi, tất đã đỗ. Nào ngờ, đây lại thành thiên văn cuối cùng của huynh ấy.”
Thích Tầm ngạc nhiên:
“Sao lại nói thế?”
Giản Hồng giải thích:
“Vì đề mục của thiên văn này, chính là đề thi tiến sĩ khoa bốn năm trước, tức năm Kiến Chương nguyên niên. Chúng ta trước đây đã từng tập làm không ít lần. Lần này Tề sơn trưởng lại đặt thêm một đề phụ, càng khó hơn.”
Thích Tầm kinh hãi. Những bản văn nàng đang xem, đều không ghi đề thi, chỉ thấy văn mà thôi. Không ngờ lại là đề thi cũ. Nghĩ lại đêm qua đọc 《Vũ Lâm Linh》, toàn văn uốn lượn, tình tiết quanh co, từ chương hoa mỹ, rõ ràng xuất phát từ người đọc nhiều, viết nhiều. Nàng bất giác cúi nhìn lại văn bài của Tằng Văn Hòa… đây há có thể chỉ là ngẫu nhiên?
Giản Hồng thấy nàng lặng thinh, còn tưởng nàng không rõ phép thi cử, bèn giải thích:
“Chúng ta khoa cử có nhiều phần, quan trọng nhất là Minh kinh và Tiến sĩ. Minh kinh là khảo văn kinh điển, lấy lời thánh hiền trong kinh sử làm đề, chúng ta phải giải thích. Còn Tiến sĩ thì là tỉ thí thơ phú, biền văn. Tằng đại ca vốn giỏi Tiến sĩ khoa hơn nhiều. Năm ngoái huynh ấy tự tin lắm, cứ ngỡ phen này có thể đỗ, nào ngờ cuối cùng ngay cả tam giáp cũng không vào. Vì vậy mà suốt cả năm đều ủ rũ.”
Thích Tầm vốn chẳng am tường khoa cử đến thế, nghe xong mới hiểu phần nào. Lại nghĩ đến Lưu Hi cũng hỏng thi, bèn hỏi:
“Thế bình thường, so với Lưu Hi, văn học ai hơn ai? Lưu Hi cũng đâu đỗ được.”
Giản Hồng hơi ngập ngừng, cuối cùng vẫn nói:
“Nếu so, thì Lưu Hi vẫn nhỉnh hơn. Hắn vốn xuất thân phú quý, nền tảng khác hẳn chúng ta, học cũng nhanh hơn. Nhưng năm ngoái, Tằng đại ca quả thực rất có hy vọng. Người như huynh ấy vốn khiêm nhường, thế mà trước kỳ thi còn từng nói, lần này phần nhiều sẽ trúng. Khi đó ta còn nghĩ, từ nay huynh ấy ắt sẽ thẳng đường tiến thân rồi.”
Thích Tầm cảm thấy có chỗ bất ổn:
“Mỗi năm đề thi đều thay đổi, sao hắn lại dám chắc mình tất sẽ đỗ cao?”
Giản Hồng bĩu môi:
“Trước kỳ thi, ai chẳng phải ôm hy vọng? Tằng đại ca cũng chỉ buột miệng với ta thôi. Những người khác năm ngoái đi thi cũng đều tự tin như vậy, nhất là Lưu Hi. Hắn thậm chí còn mơ đến việc sau khi đỗ sẽ vào Hàn Lâm viện làm quan nữa kìa.”
Thích Tầm trầm mặc. Cả Lưu Hi lẫn Tằng Văn Hòa đều là kẻ khổ học, nổi bật trong đồng lứa, nếu thật sự đỗ cũng chẳng có gì lạ. Nhưng cuối cùng cả hai đều trượt, đủ thấy khoa cử gian nan.
Nàng lại cúi nhìn kịch văn rồi văn bài, chợt nổi hứng:
“Vậy đề tiến sĩ khoa bốn năm trước là gì?”
Giản Hồng đáp:
“Đề thi thơ là 《Thanh Vân can Lữ》, còn đề phú là 《Châu hoàn hợp phố》. Năm ngoái, cuối kỳ, chúng ta cũng lấy đề phú này làm luyện tập. Về sau Tề sơn trưởng lại thêm một đề phụ 《Thiên kim hoàn phục lai》, biến thành ‘Ngọc châu trở lại, thiên kim cũng hồi’, càng khó hơn. Thế nên chúng ta đều viết xoay quanh tiền tài lợi lộc.”
Giản Hồng thở dài, mặt mày u sầu:
“Năm ngoái Lưu Hi với Tằng đại ca đều trượt, mấy người khác cũng đi thi mà cũng rớt nốt. Còn lại thì chẳng dám đi thi. Thật chẳng biết đến bao giờ mới có ngày ngẩng đầu.”
Thích Tầm bất giác nghĩ tới nội dung 《Vũ Lâm Linh》: một đôi trai gái lâm cảnh chia lìa, sau lại hợp như gương lành trở lại, vừa khớp điển ‘Châu hoàn hợp phố’. May mà vở tuồng kia viết trước kỳ thi đã lâu, lại chỉ là kịch bản dân gian, chứ nếu trùng thời điểm thi thì hẳn nàng đã nghĩ đến chuyện khoa trường gian lận.
Lẽ nào Lưu Hi đi nghe hát cũng vì thấy vở ấy hợp với đề thi năm xưa, muốn tìm chút linh cảm?
Nàng lại hỏi:
“Đề tiến sĩ khoa mỗi năm đều khác nhau. Vậy năm ngoái là gì? Khó đến mức nào mà khiến nhiều người không vượt qua nổi?”
Giản Hồng như nhớ ra, liền xoay người lục trong chồng sách, lấy ra một xấp văn bài:
“Năm ngoái, bốn năm trước, cùng những đề thi trước đó, ta đều chép lại cả. Đây là thứ chúng ta phải ngày ngày nghiền ngẫm.”
Thích Tầm cầm lấy, lật xem. Thấy đề thơ năm ngoái là 《Ngự câu tân liễu》, đề phú là 《Minh thủy》. Lật ra những năm trước, lại thấy 《Tiểu uyển xuân vọng cung trì liễu sắc》… Quả nhiên những đề thi đều ngắn gọn tinh luyện, nhưng thí sinh phải khai mở ý tứ trong đó, rồi làm thơ, làm phú, lại phải nổi bật giữa vạn người, chẳng khác nào cá vượt long môn.
Nàng trả văn bài lại, dịu giọng an ủi:
“Muốn lập công danh, muốn làm rường cột cho triều đình, tự nhiên phải trả giá. Ngươi còn nhỏ, thời gian học hành vẫn còn dài.”
Giản Hồng lại nặng nề thở dài, dáng vẻ già dặn quá tuổi. Hắn lại hỏi:
“Không biết bao giờ mới tìm ra hung thủ giết Tằng đại ca?”
Thích Tầm khẽ nhìn kịch bản trong tay:
“Cả Hình bộ lẫn Đại Lý Tự đều đang tận lực. Sẽ nhanh thôi.”
Lời vừa dứt, bên ngoài có một sai dịch đến, thấy nàng ở trong, liền vội gọi:
“Thích ngỗ tác, thế tử và Tống thiếu khanh đang chờ ở Minh Lễ Đường, truyền các ngươi đến nghị sự.”
Nghe vậy, Thích Tầm liền cáo biệt Giản Hồng, còn dặn:
“Nếu ngươi nhớ ra điều gì liên quan đến Thường Thanh, lập tức đến báo.”
Giản Hồng gật đầu, tiễn họ đi.
…
Khi Thích Tầm và Chu Úy đến Minh Lễ Đường, Phó Quyết và Tống Hoài Cẩn đang trò chuyện. Thấy họ tới, Tống Hoài Cẩn hỏi:
“Các ngươi vừa đi đâu vậy?”
Thích Tầm hành lễ, rồi đem chuyện trong văn bài của Tằng Văn Hòa có thơ trùng với 《Vũ Lâm Linh》 nói ra.
Nghe xong, Tống Hoài Cẩn sắc mặt thoáng động:
“Vậy thì đúng hợp với việc chúng ta tra. Chúng ta đã đến mấy hí lâu, hỏi về Tằng Văn Hòa, không ai nhớ có khách như vậy. Nhưng khi đưa bức họa ra, có một tiểu đồng lại thấy quen mặt, chỉ không nhớ rõ lúc nào. Nơi đó chính là Diệu Âm lâu, mà ở đó 《Vũ Lâm Linh》 diễn vô cùng nổi tiếng.”
Phó Quyết cũng nói:
“Vậy là ba người chết đều có liên quan đến kịch văn. Lưu Hi và Tằng Văn Hòa đều từng xem 《Vũ Lâm Linh》, có lẽ còn xem những vở khác. Nhưng phải nhớ, 《Vũ Lâm Linh》 không phải của Thường Thanh.”
Lâm Vi liền bổ sung:
“Hôm qua ta đã tra, 《Vũ Lâm Linh》 vốn do một vị lão tiên sinh ở Lạc Châu sáng tác năm năm trước. Lạc Châu gần kinh thành, nên truyền vào cũng nhanh.”
Thích Tầm vốn người Lạc Châu, tự nhiên rõ chuyện này chẳng khó. Nàng ngập ngừng một lát, bèn đem điển ‘Châu hoàn hợp phố’ nói ra, rồi cẩn thận thêm:
“Chỉ e là trùng hợp. Bởi loại thoại bản như thế vốn phổ biến. Huống hồ kịch văn có trước khoa cử, lại lưu hành khắp chợ búa. Thuộc hạ tuyệt không có ý nghi ngờ lộ đề. Chỉ nghĩ, Lưu Hi và Tằng Văn Hòa đi nghe hi, có khi là muốn tìm cảm hứng làm văn. Nhưng tại sao lại vì vậy mà rước họa sát thân, thuộc hạ thật không hiểu nổi.”
Nàng nhắc đến chuyện khoa cử gian lận, khiến Phó Quyết và Tống Hoài Cẩn đều thoáng nghiêm trọng. Nhưng nghĩ kỹ, kịch bản vốn có từ trước, phổ biến ngoài dân gian, quả thực khó liên hệ với gian lận.
Tống Hoài Cẩn liếc Phó Quyết, nghiêm giọng quát khẽ:
“Lời này không thể nói bừa. Ngươi biết hậu quả rồi đấy.”
Thích Tầm lập tức cúi đầu:
“Thuộc hạ lỡ lời.”
Phó Quyết mở miệng, giọng điềm tĩnh:
“Không sao. Ý tưởng quả có chỗ tương đồng, lại gặp đúng Tằng Văn Hòa viết y hệt thơ trong đó, quả nhiên là trùng hợp. Thích ngỗ tác suy nghĩ nhanh nhạy, có thể chạm đến những chỗ người khác khó nghĩ tới, biết đâu đây lại là mấu chốt phá án.”
Tống Hoài Cẩn thấy hắn không truy cứu thêm, mới âm thầm thở ra.
Lúc này, Phó Quyết nói:
“Đã đều liên quan đến việc nghe hí, vậy thì chúng ta cũng phải đi nghe. Tối nay, Tống thiếu khanh đến Diệu Âm lâu nghe 《Vũ Lâm Linh》, còn ta sẽ đến Khánh Xuân lâu xem 《Nam Quy Yến》, xem có gì huyền bí.”
Trong lòng Thích Tầm khẽ động: đêm kia ở Khánh Xuân lâu, Phó Quyết quả có nói tối nay sẽ đi nghe kịch. Lúc này hắn bỗng nhìn sang nàng:
“Đêm trước Thích ngỗ tác đã cùng ta tới Khánh Xuân lâu, tối nay vẫn theo ta mà đi.”
Lời vừa dứt, mọi người Đại Lý Tự kể cả Tống Hoài Cẩn đều đồng loạt nhìn về phía Thích Tầm, dường như lấy làm lạ: từ khi nào nàng lại riêng rẽ cùng Phó Quyết đến hí lâu?
Thích Tầm khẽ “xì” một tiếng, chỉ ngại Phó Quyết nói chưa chặt chẽ. Nàng điềm nhiên giải thích với Tống Hoài Cẩn:
“Đêm trước thuộc hạ muốn ghé Khánh Xuân lâu xem liệu có manh mối nào, không ngờ lại vừa gặp thế tử cũng tới hỏi án.”
Tống Hoài Cẩn đã hiểu, ánh mắt người khác cũng lắng xuống. Y bảo:
“Đã vậy, ngươi đi cùng thế tử cũng tốt.”
Lúc này trời hãy còn sớm. Ra khỏi Minh Lễ Đường, Tống Hoài Cẩn kéo nàng ra một bên, khẽ dặn:
“Chuyện đêm trước sao ngươi chẳng nói? Có lỡ lời điều chi trước mặt thế tử không?”
Thích Tầm nghĩ một vòng, cảm thấy mình đâu có nói sai, bèn lắc đầu:
“Vì chỉ là tình cờ chạm mặt nên chưa kịp bẩm với đại nhân.”
Tống Hoài Cẩn lại căn dặn:
“Hôm nay phải linh mẫn, chớ nghĩ gì nói nấy. Nhỡ nói hớ, tự mình chịu lấy.”
Thích Tầm biết Tống Hoài Cẩn có lòng tốt, ngoan ngoãn đáp:
“Xin yên tâm, thuộc hạ hiểu.”
Bấy giờ Chu Úy và Tạ Nam Kha đứng không xa. Tạ Nam Kha cầm bức chân dung của Tằng Văn Hòa. Thích Tầm tò mò bước tới, nâng bức họa lên xem — quả như người thật. Nàng từng khám nghiệm thi thể Tằng Văn Hòa, tự nhiên nhớ rõ diện mạo.
“Vẽ rất khéo, nhất là khung mày, khớp cốt.”
Vừa nói vừa chạm nhẹ lên cặp lông mày trong tranh, đầu ngón tay cảm thấy gồ ghề thô ráp. Tạ Nam Kha liếc về chính sảnh, hạ giọng:
“Tối nay cùng thế tử ra ngoài làm việc, có sợ không?”
Chu Úy thì khoái trá đứng bên chờ xem. Thích Tầm dở khóc dở cười:
“Thế tử nào phải hồng thủy mãnh thú, sao ta lại sợ? —” Rồi nhìn Chu Úy, “Thế tử chỉ trị tội kẻ làm việc không đứng đắn thôi.”
Chu Úy phục không nổi:
“Bao giờ ta làm việc không đứng đắn chứ…”
Tạ Nam Kha thấy hai người cãi nhau liền mỉm cười không nói. Thích Tầm chợt nhớ mấy kịch bản còn dang dở:
“Giờ hãy còn sớm, ta muốn mang theo 《Kim Tỏa Ký》 và 《Nam Quy Yến》. Hai người tốt nhất cũng mang 《Vũ Lâm Linh》.”
Nàng toan về đình giữ xác lấy sách. Vừa bước mấy bước, vô thức phủi nhẹ đầu ngón tay. Chu Úy và Tạ Nam Kha theo sát phía sau, còn đùa rằng nàng là “tấm gương làm việc số một của Đại Lý Tự”.
Ba người vừa nói vừa cười đi xa. Lâm Vi đẩy xe cho Phó Quyết chầm chậm ra khỏi Minh Lễ Đường. Hắn nhìn theo hướng Thích Tầm đi một lát, lại nhớ lời nàng vừa rồi giống như nói đỡ cho mình, bấy giờ mới thấy lo lắng của bản thân quả dư thừa: nàng rất biết chừng mực.
Đến lúc hoàng hôn, mọi người tập hợp ở cổng hông thư viện. Tống Hoài Cẩn giục ngựa sánh bên xe Phó Quyết:
“Hôm nay đã có học trò xin về trường, bị người của chúng ta chặn lại. Nếu không nhanh, trên dưới đều khó bề giao đãi, ngoài phố xá cũng đồn ầm.”
Bạch Lộc thư viện là bậc nhất thiên hạ, một vụ huyết án dĩ nhiên ảnh hưởng thanh danh. Phó Quyết nói:
“Bàn tán ngoài kia tạm mặc. Thư viện tiếp tục giới nghiêm là được. Nay án mắc ở kịch văn, nếu tháo được chỗ này, ngày phá án sẽ không xa.”
Tống Hoài Cẩn than:
“Không biết có tìm ra manh mối không. Loại việc gọt giũa câu chữ này, hạ quan thực chẳng giỏi.”
Phó Quyết mỉm cười an ủi:
“Hết sức là được.”
Khánh Xuân lâu và Diệu Âm lâu, một ở đông một ở tây, mọi người chia nhau tại ngã ba. Thích Tầm rời đội Đại Lý Tự, đi bên cạnh xe Phó Quyết.
Dọc đường, Phó Quyết không nói nhiều, Thích Tầm lại thấy thoải mái. Lâm Vi thì không nén được tính hiếu sự, hỏi:
“Thích ngỗ tác cưỡi ngựa khá đấy, học ở đâu?”
Thích Tầm đáp:
“Cũng theo sư phụ học. Trước kia đi các làng xa làm việc, không có xe ngựa, đành tập cưỡi cho tiện đường.”
Lúc ở Phù Dung Dịch, Lâm Vi từng không ưa nàng, nay qua mấy ngày cùng việc, lại thấy tính nết Thích Tầm thật đáng quý: tuổi nhỏ chịu nhiều gian khó, không oán đời, lòng dạ khoáng đạt. Những điều vất vả thời thơ ấu, qua miệng nàng nói ra nhẹ như cơm nước thường ngày.
Hắn lại hỏi nàng học nghề ra sao, Thích Tầm cũng không giấu. Hai bên chuyện trò suốt dọc đường, Lâm Vi càng thêm quý mến tiểu cô nương này. Tới trước Khánh Xuân lâu, hắn khẽ bảo Sở Khiên:
“Nghe chưa, mười tuổi đã dám theo sư phụ mổ xẻ xác chết. Còn hơn bọn ta.”
Sở Khiên gật đầu tán thành.
Đêm vừa buông, Khánh Xuân lâu đèn đuốc rực rỡ. Vừa vào cửa, quản sự đêm trước đã ra nghênh tiếp, biết họ vì việc công, mời vào nhã gian rồi đi gọi chưởng quỹ.
Khi chưởng quỹ tới, Phó Quyết vẫn gọi bữa. Vừa dọn món, màn thứ nhất đã khai diễn.
Chưởng quỹ đẩy cửa sổ nhìn xuống sân khấu, vừa giải thích:
“《Kim Tỏa Ký》 gồm hai mươi ba màn. Diễn trọn chính xuất phải mất hơn nửa ngày. Nay thường diễn nhiều nhất là hai màn ‘Túy hoa âm’ và ‘Tình đoạn’. Lát nữa 《Nam Quy Yến》 sẽ chọn ‘Trường tương tư’ cùng ‘Điểm Hồng Thần’ — đều là những màn khách ưa nhất.”
Phó Quyết hỏi:
“Hôm đó Lưu Hi nghe những màn nào?”
Chưởng quỹ đáp liền:
“Chính mấy màn này. Công tử Lưu khi ấy thích nhất là ‘Trường tương tư’ của 《Nam Quy Yến》. Màn ấy kể chuyện Liễu nương bất đắc dĩ nhập cung, trong cung ngày đêm tưởng nhớ Lang quân. Lát nữa các vị sẽ nghe.”
Thích Tầm vốn không lạ gì Kim Tỏa Ký. Đọc chuyện rồi nghe tuồng, ắt càng hiểu. Gặp chỗ nam âm khó, nàng lại giở thoại bản mang theo. Đến khi dùng bữa xong, màn thứ nhất vừa dứt. Nàng chăm chú nhìn thân pháp đào kép, lắng tai nghe lời ca, càng muốn moi móc manh mối lại càng chẳng thấy quái lạ chỗ nào.
Phó Quyết thấy nàng ngồi ngay ngắn, thần sắc nghiêm cẩn, vừa nghe vừa lật sách — hệt nữ học trò theo phu tử học chữ — bèn gọi:
“Thích ngỗ tác—”
Nàng đang dỏng tai phân biệt hai câu nam âm, nên không nghe. Phó Quyết nhìn nàng một thoáng, gọi rõ tên:
“Thích Tầm—”
Nàng giật mình hoàn hồn:
“Thế tử?”
Hắn chỉ vào kịch bản trong tay nàng:
“Đưa ta xem.”
Nàng vội đứng dậy trao sách. Thấy hắn chưa tìm đúng đoạn, nàng chỉ vào trang:
“Đang hát chỗ này — lúc đôi bên vừa tỏ tình tương duyệt. Kế đó chia phôi, chính là màn ‘Tình đoạn’.”
Nói chừng ấy, màn thứ hai đã mở. Thấy nàng đứng cạnh mình, Phó Quyết liếc Lâm Vi. Lâm Vi hiểu ý, kéo ghế của Thích Tầm đặt bên cạnh Phó Quyết. Hắn vừa hỏi “đây là đoạn nào” vừa ra hiệu nàng ngồi.
Thích Tầm thuận tay ngồi xuống, chỉ xong chỗ hát mới giật mình: ngồi sát thế tử như vậy có ổn không? Nàng liền dịch ghế ra sau, tự biết phận mình.
‘Tình đoạn’ là một màn bi sầu. Tiểu thư Thê Thê và thư sinh Mạnh Phỉ Nhiên bị tục thế cấm cản, phải chia lìa. Đào kép cất giọng ai oán réo rắt, nghe mà đầu tim nhói buốt. Sau ly biệt, Thê Thê cắt tóc tế Hà thần, cầu phù hộ cho Mạnh Phỉ Nhiên, lại cầu cho đôi bên còn ngày đoàn tụ.
Lâm Vi bấy giờ hỏi:
“Lệ tục ở đâu vậy? Sao lại bắt nữ tử đoạn phát? Trên sân khấu là cắt thật hay giả?”
Chưởng quỹ cười đáp:
“Ở Quỳnh Châu bên Nam, nghi thức tế Hà thần là như vậy. Còn đoạn phát tất giả chứ. Nếu thật, đào kép có bao nhiêu tóc cho đủ mà cắt.”
Lâm Vi gãi mũi — đám trò diễn này đúng là khéo đánh lừa người.
Màn kịch u buồn đè nén, xem xong ai nấy lòng cũng nặng trĩu. Phó Quyết thì theo kịch bản mà xem, chưa đến nỗi đ*ng t*nh. Quay sang đã thấy đuôi mắt Thích Tầm hoe đỏ, nơi đáy mắt lóng lánh một vệt lệ quang — thương cảm đến nao lòng.
Phó Quyết nhìn nàng vài nhịp, đang nghĩ rằng Thích Tầm quả là người chí tình chí tính, thì thấy nét mặt nàng bỗng biến đổi.
Nàng nghi hoặc nói:
“Ta nhớ Thường Thanh ngày thường chỉ đọc kinh sử tử tập, trong tủ sách ngay cả du ký cũng chẳng có. Vậy hắn làm sao viết ra được những kịch văn thế này?”
Nàng quay sang nhìn hắn:
“Một người, phải có điều tai nghe mắt thấy tích tụ lại thì mới viết nên lời có căn cứ. Lẽ nào những chuyện này Thường Thanh đều bịa ra từ hư không?”
Câu hỏi bất ngờ ấy làm Phó Quyết thoáng khựng lại. Hắn chưa kịp đáp thì trong sảnh đã vang lên một tràng hò reo vỗ tay — 《Nam Quy Yến》 bắt đầu diễn. Thích Tầm cũng không cần hắn trả lời nữa, liền với tay lấy kịch bản 《Nam Quy Yến》.
Tiếng trống kèn réo rắt, tiếng tơ sáo réo rắt, Liễu nương trong bộ y phục xanh biếc thướt tha bước ra sân khấu. Thân hình uyển chuyển, giọng ca trong trẻo, chỉ mới mấy câu từ đã gợi rõ mối sầu tư bi thiết. Thích Tầm vừa nghe, vừa nhớ đến 《Kim Tỏa Ký》 của Thường Thanh, cảm giác như thú dữ vây hãm, nhất thời nghĩ mãi không thông.
Ngay lúc ấy, một câu hát lướt ngang tai nàng. Giữa khúc nam âm uyển chuyển, nàng bỗng phân biệt được mấy chữ.
Không kìm được, nàng khẽ hỏi:
“Thế tử, vừa rồi hát gì vậy?”
Phó Quyết đáp:
“Hát câu: ‘Tiểu uyển xuân vọng, mãn trì xuân sắc cung tường liễu’.”
Trong khi Liễu nương vẫn ngân nga thê lương, Thích Tầm đột ngột sững sờ. Nàng nghi hoặc lặp lại:
“Tiểu uyển… gì?”
Phó Quyết nhắc lại một lần nữa. Thích Tầm cũng thì thầm theo. Ngay sau đó, nàng cúi đầu tìm trong kịch bản. Giữa hàng chữ dày đặc, câu ca ấy chẳng hề nổi bật, nhưng khi mắt nàng bắt gặp, trong óc lập tức hiện lên chính là… xấp văn bài mà ban ngày nàng xem ở chỗ Giản Hồng!
— Quá giống rồi!
Nếu nói câu thơ trong bài biền văn của Tằng Văn Hòa trùng với 《Vũ Lâm Linh》 chỉ là ngẫu nhiên, thì câu hát này “Tiểu uyển xuân vọng, mãn trì xuân sắc cung tường liễu” cũng có thể coi là trùng hợp sao?!
Nàng ngẩng phắt lên nhìn Phó Quyết, giọng run run:
“Thế tử… vụ án lần này, có lẽ thật sự liên quan đến khoa cử gian lận!”